TÀI liệu về chế hòa khí trên ô tô cũ

trinhquangtuan
Bình luận: 2Lượt xem: 3,309

wensheng

Tài xế O-H
Bài của bác khoadonglujwc đây
https://www.oto-hui.com/diendan/threads/cac-che-do-lam-viec-cua-bo-che-hoa-khi.14768/

- Trên thực tế, để cho bộ chế hoà khí có thể đáp ứng mọi chế độ làm việc của động cơ và tiết kiệm được nhiên liệu thì cấu tạo của nó phức tạp hơn rất nhiều. Bố chế hoà khí phải đảm bảo được các chế độ làm việc cơ bản sau đây của động cơ: chế độ không tải, chế độ khởi động, chế độ tải trung bình, chế độ toàn tải, chế độ mở bướm ga đột ngột, ngoài ra nó còn phải có các hệ thống đảm bảo tính tiết kiệm nhiên liệu và tránh ô nhiễm môi trường. Bởi vậy, một bộ chế hoà khí thường có rất nhiều đường xăng, cùng với các cơ cấu, hệ thống điều chỉnh lượng xăng để phù hợp với chế độ làm việc của động cơ.
* Chế độ khởi động :
- Khi khởi động động cơ ở trạng thái nguội, điều kiện tạo hỗn hợp khí cháy khó khăn hơn nhiều. Thứ nhất là vì lúc này, trục khuỷu động cơ quay với tốc độ rất chậm (Ú 100 v/ph) bởi vậy độ chân không trong họng khuyếch tán rất nhỏ. Nguyên nhân thứ hai là ở nhiệt độ thấp khả năng bay hơi của nhiên liệu kém đi rất nhiều. Do vậy, khi khởi động động cơ, cần phải có hỗn hợp đậm đặc. Để tạo được hỗn hợp đậm đặc trong điều kiện khởi động, bộ chế hoà khí được trang bị thêm một bướm khí nằm ở phía trên cùng của ống hút.
Khi khởi động, các bướm ga và bướm khí đều đóng và vì vậy mà độ chân không trong bộ chế hoà khí lúc này rất lớn mặc dù số vòng quay của động cơ là rất nhỏ. Xăng được hút qua cả đường xăng chính và đường xăng không tải, trong khi đó không khí chỉ được đi qua gíclơ khí của đường không tải và qua một van nhỏ trên bướm khí. Nhờ đó mà hỗn hợp khí cháy cấp vào các xi lanh là rất đậm đặc.
ch1.jpg

Khi ô tô khởi động nguội > Tạo hỗn hợp khí cháy khó hơn nhiều do RPM động cơ đang rất chậm nên độ chân không họng khuếch tán nhỏ, còn nữa đó là do nhiệt độ thấp nên nhiên liệu bay hơi kém > Khi khởi động, nhiên liệu phải đậm đặc > Ta trang bị thêm một van hút ở phía trên bướm gió.

Khi khởi động, các bướm ga & gió đều đóng > Độ chân không trong Carburator là rất lớn > Xăng được hút qua cả đường xăng chính & đường không tải & qua thêm 1 van nhỏ nằm trên bướm khí > Hỗn hợp cháy siêu đậm đặc.
ch2.jpg

* Chế độ không tải
- Ở chế độ này, chỉ cần cấp một lượng xăng rất nhỏ đủ để duy trì cho động cơ hoạt động ổn định với số vòng quay thấp nhất. Lúc này, bướm ga gần như đóng hoàn toàn cho nên ở phía trên bướm ga độ chân không hầu như không còn nữa và vì vậy đường xăng chính không hoạt động. Ngược lại, phía dưới bướm ga độ chân không lại rất lớn và tại đây người ta bố trí lỗ phun của đường xăng không tải.

ch3.jpg

ch4.jpg

Ở chế độ này, chỉ cần cấp một lượng xăng rất nhỏ đủ để duy trì cho động cơ hoạt động ổn định với số vòng quay thấp nhất.

Bướm ga gần như đóng hoàn toàn > Độ chân không phía trên bướm ga hầu như không còn nữa > Đường xăng chính không hoạt động.

Nhưng phía dưới bướm ga lại có độ chân không vô cùng lớn. Tận dụng điểm này, ta bố trí một đường xăng phụ đi vòng về phía dưới của bướm ga. Ta gọi đó là đường xăng không tải.

Khi động cơ hoạt động, và bướm ga hoàn toàn đóng > Độ chân không phía sau bướm ga là rất lớn > Xăng sẽ được hút từ Glicơ xăng qua đường xăng không tải & hòa trộn với không khí ngay tại đây > Hỗn hợp được phun ra ở phía sau bướm ga.


* Chế độ tải trung bình
ở chế độ này bướm ga mở vừa phải và chỉ có đường xăng chính làm việc. Đường xăng chính bao gồm một giclơ xăng, một giclơ khí và đường dẫn xăng. Giclơ là một ống tiết lưu có tiết diện lưu thông được tính toán chính xác để khống chế lưu lượng chất lỏng đi qua nó. Khi động cơ hoạt động ở chế độ tải trung bình, bướm ga mở vừa phải, xăng bị hút qua giclơ chính theo đường dẫn rồi phun vào họng khuyếch tán.

ch5.jpg

Chế độ này, bướm ga chỉ mở vừa phải & chỉ có đường xăng chính làm việc.

Đường xăng chính bao gồm 1 Glicơ xăng, Glicơ khí & đường dẫn xăng. Glicơ là 1 ống tiết lưu có công dụng khống chế xăng đi qua nó.

Khi động cơ hoạt động ở tải trung bình, bướm ga mở vừa phải > Xăng bị hút qua Glicơ chính theo đường dẫn rồi phun vào họng khuếch tán.

Để hỗn hợp không quá đậm đặc. Ta thiết kế thêm Glicơ khí > Ở trạng thái này, hệ số dư lượng không khí là để đảm bảo tính tiết kiệm nhiên liệu.
ch6.jpg

* Chế độ toàn tải:
- Đường xăng chính được thiết kế theo chế độ tiết kiệm nhiên liệu, nó luôn luôn cấp hỗn hợp loãng cho động cơ. Do vậy, khi cần phát huy hết công suất của động cơ thì cần phải có đường xăng bổ xung để tạo hỗn hợp cháy đủ đậm đặc đáp ứng cho yêu cầu tải ở chế độ này. Đường xăng bổ xung này (còn được gọi là đường xăng làm giàu hỗn hợp cháy) bao gồm một van thường được đóng chặt bởi lò xo, một giclơ và một đường dẫn tới hoà vào đường xăng chính.

ch7.jpg
ch8.jpg



Khi cần phát huy hết công suất của động cơ thì cần phải có đường xăng bổ xung để tạo hỗn hợp cháy đủ đậm đặc đáp ứng cho yêu cầu tải ở chế độ này > Đường xăng bổ xung (Đường làm đậm hỗn hợp cháy).​

Đường xăng này được đóng bởi lò xo, và có thêm một Glicơ & đường dẫn vào đường xăng chính.

Khi động cơ hoạt động toàn tải > Thông qua 1 cơ cấu đòn bẩy (bằng thủy lực hoặc điện tử) bướm ga đẩy lò xo đi xuống > Giúp đường xăng bổ sung hoạt động > Cho xăng đi qua đường dẫn xăng này vào đường xăng chính làm đậm thêm hỗn hợp khí cháy.

* Chế độ mở bướm ga đột ngột:
- Khi bướm ga mở đột ngột, lượng không khí đi qua họng khuyếch tán cũng đột ngột tăng theo, nhưng lượng xăng cấp qua đường xăng chính lại tăng chậm hơn, do quán tính của chất lỏng cũng như sức cản thuỷ lực trong đường dẫn. Vì vậy hỗn hợp khí cháy trở nên rất loãng và làm tụt hẳn công suất của động cơ, thậm chí có thể gây dừng máy. Để tránh hiện tượng này và đảm bảo cho động cơ có thể tăng công suất kịp theo tốc độ mở của bướm ga, bộ chế hoà khí được trang bị một bơm gia tốc.

ch9.jpg
ch10.jpg

Khi bướm ga mở đột ngột > Lượng không khí tăng lên bất thường > Lượng nhiên liệu chưa đáp ứng kịp (Do quán tính thủy lực) > Hỗn hợp khí cháy nhạt đi rất nhiều > Có thể tắt máy > Để hạn chế hiện tượng này > Ta thiết kế cơ cấu tăng tốc đột ngột.

Cấu tạo cơ cấu này gồm 1 xylanh chính bố trí trong buồng phao. Piston được nối vơi bàn đạp ga. Phần dưới có van 1 chiều chỉ để nhiên liệu vào Xylanh tăng tốc đột ngột.

Bình thường, dưới tác dụng của lò xo nên Piston bị kéo lên trên > Cơ cấu mở bướm ga đột ngột không hoạt động.

Khi người lái đạp đột ngột bàn đạp ga > Dưới lực bàn đạp > Thắng lực lò xo và nén Piston đi xuống dưới (Tăng áp suất phía dưới Piston) > Làm van 1 chiều đóng lại ngăn không cho xăng về buồng phao > Xăng dồn qua van đẩy qua Glicơ rồi phun vào họng khuếch tán.

Lúc này, lò xo dẫn động sẽ bung ra & tiếp tục nén Piston đi xuống thêm 1 – 2s nữa > Để cung cấp đủ lượng xăng bổ xung.

Nếu bướm ga mở từ từ > Lực lò xo đẩy Piston xuống từ từ > Áp suất phía dưới Piston không đủ đóng van 1 chiều > Vẫn cho phép xăng trở về buồng phao
 

wensheng

Tài xế O-H
Hoặc đây nữa
https://www.oto-hui.com/diendan/threads/nguyen-ly-hoat-dong-cua-bo-che-hoa-khi.14767/
ch21.jpg
- Nguyên lý hoạt động của bộ chế hoà khí được thể hiện trên hình. Nó bao gồm một buồng chứa xăng thường gọi là buồng phao, các đường dẫn xăng và các đường dẫn khí, họng khuyếch tán và các van điều khiển (bướm ga, bướm khí).
ch22.jpg
- Bộ phận cơ bản của bộ chế hoà khí là họng khuyếch tỏn (còn gọi là buồng hoà khí), nó cấu tạo như một đoạn ống bị thắt lại ở đoạn giữa (venturi). Chính ở đoạn này người ta bố trí ống phun của đường xăng chính.

- Khi động cơ hoạt động, (bướm ga và bướm khí đều mở) không khí bị hút vào từ phía trên, đi qua họng khuyếch tán. Tại đây, do tiết diện lưu thông bị thu hẹp lại, tốc độ của dòng khí tăng lên làm áp suất giảm xuống tạo độ chân không hút nhiên liệu từ trong buồng phao qua đường xăng chính và phun ra dưới dạng tia. Như vậy, xăng bị phun vào dòng khí có tốc độ cao, hoà trộn với không khí và bay hơi để tạo thành hỗn hợp khí cháy.
ch25.jpg
Tuy nhiên, do thời gian tạo hỗn hợp ở đây quá ngắn nên vẫn còn một lượng xăng nhất định chưa kịp bay hơi. Để tạo được hỗn hợp khí cháy hoàn chỉnh thì cần phải tạo điều kiện tốt để lượng xăng còn lại này bay hơi nốt trước khi bugi phát tia lửa điện (sử dụng xăng dễ bay hơi, xấy nóng xăng và khí nạp, tạo mặt thoáng và áp suất thấp trên đường ống hút để các giọt nhiên liệu bay hơi nốt, ...). Để tăng hơn nữa độ chân không trong buồng hoà khí, người ta sử dụng các bộ chế hoà khí có 2 hoặc 3 ống khuyếch tán đặt nối tiếp nhau.
ch26.jpg
- Lượng khí được hút qua carburetor phụ thuộc vào độ mở của bướm ga: bướm ga mở càng lớn thì lượng khí đi qua càng nhiều, nghĩa là tốc độ dòng khí ở họng khuyếch tán càng tăng và lượng xăng bị hút vào càng lớn. Như vậy, bướm ga cho phép điều khiển hoạt động của động cơ ở các chế độ tải khác nhau tuỳ theo điều kiện làm việc. Việc điều khiển bướm ga được thực hiện nhờ một bàn đạp bố trí trong ca bin ôtô, thường được gọi là bàn đạp ga.
ch27.jpg
- Để bộ chế hoà khí có thể hoạt động bình thường ở mọi chế độ làm việc của động cơ, người ta khống chế mức xăng trong buồng phao luôn luôn không đổi nhờ một cơ cấu đóng mở tự động. Cơ cấu bao gồm một quả phao và một van đặt trên đường cấp xăng. Quả phao được gắn với vỏ của buồng phao bằng một khớp bản lề, sao cho nó có thể di chuyển lên xuống dễ dàng và luôn luôn nổi trên bề mặt xăng. Van có nhiệm vụ đóng, mở để điều khiển việc cấp xăng vào buồng phao. Kim van được gắn trên phao nên nó di chuyển lên, xuống cùng với phao. Khi lượng xăng trong buồng tăng thì phao nổi lên, kim van đi lên rồi đóng chặt lỗ van khi mức xăng đạt giá trị định mức. Khi mức xăng trong buồng giảm xuống thì phao đi xuống theo, kim van mở ra và xăng lại tiếp tục được cấp vào trong buồng.
ch28.jpg
- Đối với bộ chế hoà khí, áp suất trên mặt thoáng của buồng phao đóng vai trò rất quan trọng, bởi vì lượng xăng mà nó cấp cho động cơ hoàn toàn phụ thuộc vào độ chênh áp giữa họng khuyếch tán và mặt thoáng buồng phao. Người ta phân biệt 2 dạng buồng phao: buồng phao cân bằng và buồng phao không cân bằng. Buồng phao cõn bằng có mặt thoáng được nối thông với khí trời, do vậy áp suất trong buồng phao luôn luôn bằng áp suất khí trời. Nó có nhược điểm là khi bầu lọc không khí bị tắc thì độ chân không trong họng hút tăng lên đáng kể, trong khi đó áp suất mặt thoáng buồng phao vẫn không đổi, do vậy lượng xăng bị hút vào sẽ vượt quá mức cần thiết. Buồng phao khụng cõn bằng có mặt thoáng được nối với ống hút, nằm ngay phía trên bướm khí, nhờ vậy mà khi độ chân không ở phía trước bộ chế hoà khí bị thay đổi (tắc lọc khí) thì áp suất mặt thoáng cũng thay đổi theo, do đó lượng nhiên liệu được hút vào vẫn không thay đổi.
- Bướm khí dùng để thay đổi độ chân không trong buồng hoà khí, nó thường chỉ được sử dụng khi khởi động động cơ ở trạng thái nguội (xem phần chế độ khởi động của chế hoà khí). Bướm khí thường được điều khiển bằng dây cáp từ trong ca bin ôtô.
Một vài hình ảnh về bộ chế hòa khí trên các dòng xe đời mới
ch29.jpg
ch210.jpg
ch211.jpg
ch212.jpg
ch213.jpg
ch214.jpg

Trên đây là nguyên lý hoạt động của bộ chế hoà khí tối giản. Trên thực tế, để cho bộ chế hoà khí có thể đáp ứng mọi chế độ làm việc của động cơ và tiết kiệm được nhiên liệu thì cấu tạo của nó phức tạp hơn rất nhiều. Bố chế hoà khí phải đảm bảo được các chế độ làm việc cơ bản sau đây của động cơ: chế độ không tải, chế độ khởi động, chế độ tải trung bình, chế độ toàn tải, chế độ mở bướm ga đột ngột, ngoài ra nó còn phải có các hệ thống đảm bảo tính tiết kiệm nhiên liệu và tránh ô nhiễm môi trường. Bởi vậy, một bộ chế hoà khí thường có rất nhiều đường xăng, cùng với các cơ cấu, hệ thống điều chỉnh lượng xăng để phù hợp với chế độ làm việc của động cơ. Để xem chi tiết xin đọc bài viết Các chế độ làm việc của bộ chế hoà khí

ch24.jpg


ch23.jpg
 

Bạn hãy đăng nhập hoặc đăng ký để phản hồi tại đây nhé.

Bên trên