Kiến thức cơ bản:
- Tỷ số nén, tỷ số truyền, công suất, mômen là gì?
- Những yếu tố nào để đánh giá một chiếc xe mạnh hay yếu.
I) Thông số kỹ thuật của xe.
- Thực ra là đơn vị đo công suất mã lực giữa hp và ps cũng hơi chênh lệch nhau một tý. 1 hp = 745,69 w, 1ps = 735,5 w.
+ hp là đơn vị chuẩn của Mỹ và được quy ước là chuẩn của thế giới .
+ Còn ps là đơn vị chuẩn của Đức và được các nước Châu Âu hay dùng. Sự chênh lệch này sẽ rất ít nếu như xe có công suất nhỏ.
Ví dụ: Xe yamaha exciter của Việt Nam có công suất 8,45 kw nếu đo theo hệ hp thì = 11,33 hp còn đo theo hệ ps thì = 11,5 ps. Nhưng sự chênh lệch này là đáng kể nếu xe có công suất lớn. Ví dụ siêu xe bugatti veyron công suất 736 kw nếu đo theo hệ ps thì được 1001 mã lực còn ở hệ hp chỉ còn 988 mã lực.
- Nhiều khi vì yếu tố quảng cáo,thương mại và hội chứng yêu công suất cao nên các hãng xe đề công suất mã lực bằng ps đối với các xe thể thao công suất lớn .
* Một số vấn đề về thông số kỹ thuật mà các bạn hay nhầm:
- Dung tích xy lanh :được giới hạn bởi điểm chết dưới và điểm chết trên của xy lanh .
- Dung tích buồng cháy :được giới hạn bởi điểm chết trên và nắp xy lanh của động cơ .
- Dung tích toàn phần = dung tích xy lanh + dung tích buồng cháy
Một động cơ bao giờ thông số kỹ thuật cũng ghi dung tích xy lanh
=> Như vậy là dung tích xy lanh không bao gồm dung tích buồng cháy nha ,dung tích xy lanh và dung tích buồng cháy là hai phần riêng biệt. Một số bạn khi tính dung tích xy lanh lại cộng thêm cả phần dung tích buồng cháy như vậy là nhầm đó nha. Sở dĩ các kỹ sư của nhà sản suất tính như vậy vì dung tích xy lanh là phần sinh ra công còn dung tích buồng cháy là phần không sinh công mà chỉ làm nhiệm vụ đốt cháy nhiên liệu. Mà công suất chỉ được sản sinh khi có quãng đường dó là sự chuyển dịch của các pistông .
=> Dung tích xy lanh = bán kính xy lanh bình phương x số pi x hành trình pistông (đây chính là công thức tính thể tích hình trụ tròn )
- Tỷ số nén: là tỷ số giữa dung tích toàn phần và dung tích buồng cháy. Ví dụ người ta nói yamaha exciter có tỷ số nén là 11:1 nghĩa là động cơ của exciter có dung tích toàn phần lớn gấp 11 lần dung tích buồng cháy.
-Tỷ số truyền: giả sử có hai bánh răng, bánh răng thứ nhất có 9 răng, bánh răng thứ hai có 27 răng, khi cho hai bánh răng đó tiếp xúc và quay, bánh răng thứ nhất quay được 3 vòng thì bánh răng thứ hai quay được 1 vòng. Ta nói tỷ số truyền giữa bánh răng thứ nhất với bánh răng thứ hai là 3:1, lúc này mômen của bánh răng thứ hai lớn gấp 3 lần bánh răng thứ nhất, nhưng lại thiệt về quãng đường và phải quay tới 3 vòng.
=> Tỷ số truyền là tỷ số tốc độ vòng quay của trục sơ cấp với thứ cấp trong hộp số của động cơ -> ứng với tỷ số truyền ta có dải tỷ số truyền lực ở các số.
Ví dụ: Xe exciter có đề là tỷ số truyền sơ cấp và thứ cấp 2,875 / 2,600 nghĩa là khi động cơ hoạt động , trục khuỷu quay 1 vòng thì trục sơ cấp quay 2,875 vòng còn trục thứ cấp quay 2,600 vòng .xếp theo thứ tự trục khuỷu quay dẫn đến trục sơ cấp quay dẫn đến trục thứ cấp quay trước khi ra bánh răng xích. Như vậy, là trục khuỷu đã truyền một lực mạnh hơn công mà nó sinh ra tới trục sơ cấp là 2,875 lần còn trục thứ cấp là 2,600 lần. Khi ở số thấp ( tỉ số truyền >1) thì bánh răng của trục thứ cấp lớn hơn bánh răng ở trục sơ cấp vì lúc này xe cần mômen để tăng tốc và tải nặng. Khi ở các số cao hơn (tỉ số truyền <1) thì bánh răng của trục thứ cấp lại lớn nhỏ bánh răng ở trục sơ cấp vì lúc này xe cần tốc độ hơn là mômen. Khi ta cần duy trì tốc độ thì thường xe đi số truyền thẳng (tỉ số truyền =1) , trên xe số truyền thẳng thường ứng với số 4.
Tỷ số truyền sẽ được điều chỉnh sao cho động cơ hoạt động phù hợp nhất ứng với tỷ số đó. Chiều quay của trục sơ cấp và thứ cấp ngược chiều nhau. Có thể thấy là khi bạn vào số hoặc về số tức là bạn đã làm thay đổi tỷ số truyền dẫn đến xe đạt được công suất và mômen ở các số khác nhau .xe chỉ đạt công suất cực đại khi vòng quay của động cơ lớn nhất nhưng lại đạt momen cực đại khi vòng quay động cơ nhỏ hơn.
- Kích thước bánh xe: Ví dụ xe exciter người ta ghi là kích thước bánh trước 70/90-17, bánh sau 80/90-17 nghĩa là:
+ Bánh trước 70/90-17: Mặt cắt ngang của bánh trước là 70 mm = 7 cm. Mặt cắt dọc của bánh trước chiếm 90 % của mặt cắt ngang lấy 70 x 90% = 63 mm =6,3 cm còn 17 là đường kính của vành xe =17 inch = 43,18 cm
+ Tương tự bánh sau 80/90-17: Mặt cắt ngang của bánh sau là 8 cm ,mặt cắt dọc =8 x 90% =7,2 cm .đường kính của vành xe =17 inch =43,18 cm
II) Những thông số quyết định một chiếc xe mạnh hay yếu.
1) Công suất là đại lượng đặc trưng cho tốc độ của một chiếc xe (xe nào có công suất càng cao thì khả năng đạt tốc độ tối đa càng cao) .đa số các xe super sport được ưu tiên về công suất cao để đáp ứng về tốc độ.
2) Mômen là đại lượng đặc trưng cho độ tăng tốc và sức tải của một chiếc xe ( xe nào có momen lớn hơn thì khả năng tăng tốc nhanh hơn và tải được nặng hơn) .đa số xe cruiser được ưu tiên về mômen cao để đáp ứng về chịu tải nặng và leo dốc.
Ví dụ: Xe có momen lớn thì vê ga 1 cái là nó bốc lên ngay và mình cảm thấy nó cứ giật mạnh chồm chồm .điều này dễ thấy nhất khi mình đi xe ở số thấp thì máy rất mạnh nhưng dù bạn có vê ga hết cỡ thì cũng không đạt được tốc độ tối đa và ngược lại khi đi xe ở số cao bạn sẽ thấy xe yếu nhưng nếu vê ga hết cỡ thì xe sẽ chạy max speed
3) Công suất và momen là hai thông số gắn bó mật thiết và tỷ lệ thuận với nhau.
4) Dung tích xy lanh cũng tỷ lệ thuận với công suất và mômen
5) mômen dụa trên nguyên lý về đòn bẩy của ácimet ,túc là sự cân bằng giữa lực và quãng đường.được lợi về lực thì thiệt về quãng đường còn được lợi về quãng đường thì thiệt về lực.
6) Tỷ số truyền : công suất và mômen bị giới hạn tốc độ và sức mạnh bởi tỷ số truyền lực giữa trục sơ cấp và thứ cấp trong bộ ly hợp ( hộp số ).
Ví dụ: Điển hình nhất là chiếc xe lu cán nhựa đường ,mặc dù xe có công suất và mômen cũng khá lớn để di chuyển chiếc xe rất nặng này nhưng vì mụch đích chỉ để cán nhựa đường nên chiếc xe dù có công suất và mômen lớn nhưng tốc độ tối đa cũng rất bé ,vì nếu mà nhanh thì sẽ nguy hiểm chết người.
7) Tỷ lệ về công suất /trọng lượng của 1 chiếc xe cũng là yếu tố.
8) vòng tua máy cũng là một yếu tố .các xe super sport thường có vòng tua máy rất cao khoảng 18000 vòng / phút để đáp ứng về tốc độ còn xe cruiser thì thường có vòng tua máy thấp khoảng dưới 10000 vòng / phút để đáp ứng về sức tải nặng và leo dốc
III ) Tổng kết
Thước đo về tốc độ, sức mạnh của một chiếc xe chính là công suất và mômen của động cơ chiếc xe đó. Đây cũng chính là tiêu chí sản xuất cho tất cả các loại xe ,dòng xe. Chỉ số công suất/trọng lượng, vòng tua máy cũng cần xét đến. Xe thuộc dòng thể thao ,super sport thì các hãng sản xuất thường có công suất lớn ,mômen ở mức vừa phải.
( Ví dụ như R1,cbr 1000, GXS 1000, NINJA ZX 10r ,dung tích xy lanh đều là 1000 cm khối ,các xe này công suất đều ở mức sấp sỉ 180 mã lực nhưng mômen chỉ ở mức 110-120 Nm ). Còn xe để có tính năng leo dốc ,địa hình ,đường trường và cần tải nặng thì các hãng sản xuất với công suất ở mức vùa phải nhưng mômen lớn
( Ví dụ như các xe cruiser ,điển hình là triumph rocket 3 ,dung tích xy lanh 2300 cm khối ,công suất 140 mã lực nhưng mômen lên tới 200 Nm ).
Những xe hàng đầu để trình diễn công nghệ và thương hiệu sản phẩm của mình làm thoả mãn các biker cả về tốc độ và khả năng tăng tốc thì các hãng sản xuất với công suất và cả mômen ở mức cao
(Ví dụ suzuki hayabusa 2008-2009 dung tích xy lanh 1340 cc ,công suất 197 mã lực ,momen 155 Nm ) ...
Nhưng cũng có các trường hợp đặc biệt đó là các xe dành để đua giải moto gp, ví dụ như xe của rossi yamaha m1 ,xe khối lượng nhỏ có 148 kg ,dung tích xy lanh 800 cm khối ,công suất tận 210 mã lực và mômen cũng ở mức cao từ 145 - 160 Nm để đáp ứng vùa tăng tốc thật nhanh và tốc độ phải thật cao. Trong đua moto GP những xe có lợi thế về công suất thì họ cải tiến để xe tăng tốc thật nhanh và đạt tốc độ tối đa thật cao tại đoạn đường thẳng còn những xe yếu thế về công suất thì hộ lại cải tiến về hệ thống khung và tay lái để làm sao ôm cua thật nhanh. Đó là chiến thuật của từng hãng xe. Tại trường đua moto GP người ta đã phát hiện ra rằng xe có dung tích 800 cm khối, động cơ 210 mã lực chạy hết 1 vòng đua nhanh hơn xe có dung tích 1000 cm khối, động cơ 230 mã lực. Chính vì thế, người ta đã chuyển từ 1000 cm khối xuống chạy 800 cm khối.
- Cuộc chạy đua vũ trang về công suất của các hãng xe máy đối với dòng super sport hàng đầu trong các năm tới sẽ là vượt múc ngưỡng 200 mã lực, còn đối với ô tô super car sẽ là tiến dần đến mức 1000 mã lực hoặc hơn. Đó là các sản phẩm đặc biệt để thử giới hạn về sức chịu đựng của con người với tốc độ. Tuy nhiên cũng đã có nhiều tổ chức và các hãng đã quy định về giới hạn công suất, tốc độ để bảo vệ các biker.
- Trước sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, các hãng xe đã không ngừng cải tiến và sáng tạo các sản phẩm của mình ,cuộc cạnh tranh dành thị phần của các hãng xe là vô cùng khốc liệt .trên ai hết những người tiêu dùng là những người đầu tiên được hưởng lợi từ hệ quả ấy.
Nguồn: Sưu tầm.
Xem các bài viết liên quan:
- Tỷ số nén, tỷ số truyền, công suất, mômen là gì?
- Những yếu tố nào để đánh giá một chiếc xe mạnh hay yếu.
I) Thông số kỹ thuật của xe.
- Thực ra là đơn vị đo công suất mã lực giữa hp và ps cũng hơi chênh lệch nhau một tý. 1 hp = 745,69 w, 1ps = 735,5 w.
+ hp là đơn vị chuẩn của Mỹ và được quy ước là chuẩn của thế giới .
+ Còn ps là đơn vị chuẩn của Đức và được các nước Châu Âu hay dùng. Sự chênh lệch này sẽ rất ít nếu như xe có công suất nhỏ.
Ví dụ: Xe yamaha exciter của Việt Nam có công suất 8,45 kw nếu đo theo hệ hp thì = 11,33 hp còn đo theo hệ ps thì = 11,5 ps. Nhưng sự chênh lệch này là đáng kể nếu xe có công suất lớn. Ví dụ siêu xe bugatti veyron công suất 736 kw nếu đo theo hệ ps thì được 1001 mã lực còn ở hệ hp chỉ còn 988 mã lực.
- Nhiều khi vì yếu tố quảng cáo,thương mại và hội chứng yêu công suất cao nên các hãng xe đề công suất mã lực bằng ps đối với các xe thể thao công suất lớn .
* Một số vấn đề về thông số kỹ thuật mà các bạn hay nhầm:
- Dung tích xy lanh :được giới hạn bởi điểm chết dưới và điểm chết trên của xy lanh .
- Dung tích buồng cháy :được giới hạn bởi điểm chết trên và nắp xy lanh của động cơ .
- Dung tích toàn phần = dung tích xy lanh + dung tích buồng cháy
Một động cơ bao giờ thông số kỹ thuật cũng ghi dung tích xy lanh
=> Như vậy là dung tích xy lanh không bao gồm dung tích buồng cháy nha ,dung tích xy lanh và dung tích buồng cháy là hai phần riêng biệt. Một số bạn khi tính dung tích xy lanh lại cộng thêm cả phần dung tích buồng cháy như vậy là nhầm đó nha. Sở dĩ các kỹ sư của nhà sản suất tính như vậy vì dung tích xy lanh là phần sinh ra công còn dung tích buồng cháy là phần không sinh công mà chỉ làm nhiệm vụ đốt cháy nhiên liệu. Mà công suất chỉ được sản sinh khi có quãng đường dó là sự chuyển dịch của các pistông .
=> Dung tích xy lanh = bán kính xy lanh bình phương x số pi x hành trình pistông (đây chính là công thức tính thể tích hình trụ tròn )
- Tỷ số nén: là tỷ số giữa dung tích toàn phần và dung tích buồng cháy. Ví dụ người ta nói yamaha exciter có tỷ số nén là 11:1 nghĩa là động cơ của exciter có dung tích toàn phần lớn gấp 11 lần dung tích buồng cháy.
-Tỷ số truyền: giả sử có hai bánh răng, bánh răng thứ nhất có 9 răng, bánh răng thứ hai có 27 răng, khi cho hai bánh răng đó tiếp xúc và quay, bánh răng thứ nhất quay được 3 vòng thì bánh răng thứ hai quay được 1 vòng. Ta nói tỷ số truyền giữa bánh răng thứ nhất với bánh răng thứ hai là 3:1, lúc này mômen của bánh răng thứ hai lớn gấp 3 lần bánh răng thứ nhất, nhưng lại thiệt về quãng đường và phải quay tới 3 vòng.
=> Tỷ số truyền là tỷ số tốc độ vòng quay của trục sơ cấp với thứ cấp trong hộp số của động cơ -> ứng với tỷ số truyền ta có dải tỷ số truyền lực ở các số.
Ví dụ: Xe exciter có đề là tỷ số truyền sơ cấp và thứ cấp 2,875 / 2,600 nghĩa là khi động cơ hoạt động , trục khuỷu quay 1 vòng thì trục sơ cấp quay 2,875 vòng còn trục thứ cấp quay 2,600 vòng .xếp theo thứ tự trục khuỷu quay dẫn đến trục sơ cấp quay dẫn đến trục thứ cấp quay trước khi ra bánh răng xích. Như vậy, là trục khuỷu đã truyền một lực mạnh hơn công mà nó sinh ra tới trục sơ cấp là 2,875 lần còn trục thứ cấp là 2,600 lần. Khi ở số thấp ( tỉ số truyền >1) thì bánh răng của trục thứ cấp lớn hơn bánh răng ở trục sơ cấp vì lúc này xe cần mômen để tăng tốc và tải nặng. Khi ở các số cao hơn (tỉ số truyền <1) thì bánh răng của trục thứ cấp lại lớn nhỏ bánh răng ở trục sơ cấp vì lúc này xe cần tốc độ hơn là mômen. Khi ta cần duy trì tốc độ thì thường xe đi số truyền thẳng (tỉ số truyền =1) , trên xe số truyền thẳng thường ứng với số 4.
Tỷ số truyền sẽ được điều chỉnh sao cho động cơ hoạt động phù hợp nhất ứng với tỷ số đó. Chiều quay của trục sơ cấp và thứ cấp ngược chiều nhau. Có thể thấy là khi bạn vào số hoặc về số tức là bạn đã làm thay đổi tỷ số truyền dẫn đến xe đạt được công suất và mômen ở các số khác nhau .xe chỉ đạt công suất cực đại khi vòng quay của động cơ lớn nhất nhưng lại đạt momen cực đại khi vòng quay động cơ nhỏ hơn.
- Kích thước bánh xe: Ví dụ xe exciter người ta ghi là kích thước bánh trước 70/90-17, bánh sau 80/90-17 nghĩa là:
+ Bánh trước 70/90-17: Mặt cắt ngang của bánh trước là 70 mm = 7 cm. Mặt cắt dọc của bánh trước chiếm 90 % của mặt cắt ngang lấy 70 x 90% = 63 mm =6,3 cm còn 17 là đường kính của vành xe =17 inch = 43,18 cm
+ Tương tự bánh sau 80/90-17: Mặt cắt ngang của bánh sau là 8 cm ,mặt cắt dọc =8 x 90% =7,2 cm .đường kính của vành xe =17 inch =43,18 cm
II) Những thông số quyết định một chiếc xe mạnh hay yếu.
1) Công suất là đại lượng đặc trưng cho tốc độ của một chiếc xe (xe nào có công suất càng cao thì khả năng đạt tốc độ tối đa càng cao) .đa số các xe super sport được ưu tiên về công suất cao để đáp ứng về tốc độ.
2) Mômen là đại lượng đặc trưng cho độ tăng tốc và sức tải của một chiếc xe ( xe nào có momen lớn hơn thì khả năng tăng tốc nhanh hơn và tải được nặng hơn) .đa số xe cruiser được ưu tiên về mômen cao để đáp ứng về chịu tải nặng và leo dốc.
Ví dụ: Xe có momen lớn thì vê ga 1 cái là nó bốc lên ngay và mình cảm thấy nó cứ giật mạnh chồm chồm .điều này dễ thấy nhất khi mình đi xe ở số thấp thì máy rất mạnh nhưng dù bạn có vê ga hết cỡ thì cũng không đạt được tốc độ tối đa và ngược lại khi đi xe ở số cao bạn sẽ thấy xe yếu nhưng nếu vê ga hết cỡ thì xe sẽ chạy max speed
3) Công suất và momen là hai thông số gắn bó mật thiết và tỷ lệ thuận với nhau.
4) Dung tích xy lanh cũng tỷ lệ thuận với công suất và mômen
5) mômen dụa trên nguyên lý về đòn bẩy của ácimet ,túc là sự cân bằng giữa lực và quãng đường.được lợi về lực thì thiệt về quãng đường còn được lợi về quãng đường thì thiệt về lực.
6) Tỷ số truyền : công suất và mômen bị giới hạn tốc độ và sức mạnh bởi tỷ số truyền lực giữa trục sơ cấp và thứ cấp trong bộ ly hợp ( hộp số ).
Ví dụ: Điển hình nhất là chiếc xe lu cán nhựa đường ,mặc dù xe có công suất và mômen cũng khá lớn để di chuyển chiếc xe rất nặng này nhưng vì mụch đích chỉ để cán nhựa đường nên chiếc xe dù có công suất và mômen lớn nhưng tốc độ tối đa cũng rất bé ,vì nếu mà nhanh thì sẽ nguy hiểm chết người.
7) Tỷ lệ về công suất /trọng lượng của 1 chiếc xe cũng là yếu tố.
8) vòng tua máy cũng là một yếu tố .các xe super sport thường có vòng tua máy rất cao khoảng 18000 vòng / phút để đáp ứng về tốc độ còn xe cruiser thì thường có vòng tua máy thấp khoảng dưới 10000 vòng / phút để đáp ứng về sức tải nặng và leo dốc
III ) Tổng kết
Thước đo về tốc độ, sức mạnh của một chiếc xe chính là công suất và mômen của động cơ chiếc xe đó. Đây cũng chính là tiêu chí sản xuất cho tất cả các loại xe ,dòng xe. Chỉ số công suất/trọng lượng, vòng tua máy cũng cần xét đến. Xe thuộc dòng thể thao ,super sport thì các hãng sản xuất thường có công suất lớn ,mômen ở mức vừa phải.
( Ví dụ như R1,cbr 1000, GXS 1000, NINJA ZX 10r ,dung tích xy lanh đều là 1000 cm khối ,các xe này công suất đều ở mức sấp sỉ 180 mã lực nhưng mômen chỉ ở mức 110-120 Nm ). Còn xe để có tính năng leo dốc ,địa hình ,đường trường và cần tải nặng thì các hãng sản xuất với công suất ở mức vùa phải nhưng mômen lớn
( Ví dụ như các xe cruiser ,điển hình là triumph rocket 3 ,dung tích xy lanh 2300 cm khối ,công suất 140 mã lực nhưng mômen lên tới 200 Nm ).
Những xe hàng đầu để trình diễn công nghệ và thương hiệu sản phẩm của mình làm thoả mãn các biker cả về tốc độ và khả năng tăng tốc thì các hãng sản xuất với công suất và cả mômen ở mức cao
(Ví dụ suzuki hayabusa 2008-2009 dung tích xy lanh 1340 cc ,công suất 197 mã lực ,momen 155 Nm ) ...
Nhưng cũng có các trường hợp đặc biệt đó là các xe dành để đua giải moto gp, ví dụ như xe của rossi yamaha m1 ,xe khối lượng nhỏ có 148 kg ,dung tích xy lanh 800 cm khối ,công suất tận 210 mã lực và mômen cũng ở mức cao từ 145 - 160 Nm để đáp ứng vùa tăng tốc thật nhanh và tốc độ phải thật cao. Trong đua moto GP những xe có lợi thế về công suất thì họ cải tiến để xe tăng tốc thật nhanh và đạt tốc độ tối đa thật cao tại đoạn đường thẳng còn những xe yếu thế về công suất thì hộ lại cải tiến về hệ thống khung và tay lái để làm sao ôm cua thật nhanh. Đó là chiến thuật của từng hãng xe. Tại trường đua moto GP người ta đã phát hiện ra rằng xe có dung tích 800 cm khối, động cơ 210 mã lực chạy hết 1 vòng đua nhanh hơn xe có dung tích 1000 cm khối, động cơ 230 mã lực. Chính vì thế, người ta đã chuyển từ 1000 cm khối xuống chạy 800 cm khối.
- Cuộc chạy đua vũ trang về công suất của các hãng xe máy đối với dòng super sport hàng đầu trong các năm tới sẽ là vượt múc ngưỡng 200 mã lực, còn đối với ô tô super car sẽ là tiến dần đến mức 1000 mã lực hoặc hơn. Đó là các sản phẩm đặc biệt để thử giới hạn về sức chịu đựng của con người với tốc độ. Tuy nhiên cũng đã có nhiều tổ chức và các hãng đã quy định về giới hạn công suất, tốc độ để bảo vệ các biker.
- Trước sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, các hãng xe đã không ngừng cải tiến và sáng tạo các sản phẩm của mình ,cuộc cạnh tranh dành thị phần của các hãng xe là vô cùng khốc liệt .trên ai hết những người tiêu dùng là những người đầu tiên được hưởng lợi từ hệ quả ấy.
Nguồn: Sưu tầm.
Xem các bài viết liên quan: