Vì sao trên mỗi Bank của bầu catalyst phải có 2 cảm biến oxy, chức năng của mỗi cảm biến oxy?

OTOHUITEAM
Bình luận: 2Lượt xem: 3,141

OTOHUITEAM

Tài xế O-H
Vì sao trên mỗi Bank của bầu catalyst phải có 2 cảm biến oxy, chức năng của cảm biến oxy số 1 và số 2?
1. Kiểm soát bầu Catalyst:
Để theo dõi hiệu quả bầu Catalyst người ta sử dụng một cảm biến oxy trước (S1) và một cảm biến oxy sau (S2) bầu xúc tác, để xác định hiệu suất xử lí hydrocarbon dựa trên khả năng lưu trữ oxy của oxyt và kim loại quý trong bầu xúc tác (Hình 1a).
hình 1 a b c.jpg
Bình thường, nhiên liệu trong điều kiện vòng lặp kín, bầu xúc tác còn tốt, nó có khả năng chứa lượng oxy đáng kể. Điều này làm cho tần số chuyển đổi của cảm biến oxy phía sau rất chậm và biên độ của các chuyển đổi đó cũng giảm so với tần số chuyển đổi và biên độ của cảm biến oxy phía trước (Hình 1b) .

Khi hiệu quả của bầu xúc tác suy giảm do sự suy giảm về nhiệt và/hoặc tính chất hóa học của chất xúc tác, khả năng lưu trữ oxy của nó cũng suy giảm. Tín hiệu cảm biến oxy phía sau bầu xúc tác (S2) bắt đầu chuyển đổi nhanh hơn với biên độ tăng dần, tiến gần đến tần số chuyển đổi và biên độ của cảm biến oxy phía trước bầu xúc tác (S1) (Hình 1c).

Dạng hư hỏng phổ biến đối với các bầu xúc tác có thời gian sử dụng lâu là sự suy giảm hóa học (lắng đọng phốt pho trên khối gốm sứ của chất xúc tác), chứ không phải là sự suy giảm nhiệt độ.

Để đánh giá khả năng lưu trữ oxy của chất xúc tác, mạch kiểm soát sẽ đếm số lần chuyển đổi của cảm biến oxy phía trước và phía sau trong quá trình bướm ga mở cục bộ, điều kiện nhiên liệu trong vòng lặp kín sau khi động cơ được hâm nóng và nhiệt độ bộ xúc tác ở trong giới hạn. Tổng số chuyển đổi của cảm biến oxy phía sau đem chia cho tổng số chuyển đổi của cảm biến oxy phía trước để tính tỷ lệ chuyển đổi.

Tỷ lệ chuyển đổi gần bằng 0.0 cho thấy khả năng lưu trữ oxy cao, do đó hiệu quả xử lí HC cao. Tỷ lệ chuyển đổi gần bằng 1.0 cho thấy khả năng lưu trữ oxy thấp, do đó hiệu quả xử lí HC thấp.
  • Nếu tỷ lệ chuyển đổi thực tế vượt quá tỷ lệ chuyển đổi tiêu chuẩn, chất xúc tác được coi là hư hỏng.
  • Nếu mạch kiểm soát chất xúc tác không hoàn tất trong một chu kỳ chạy xe cụ thể, dữ liệu độ dài chuyển đổi/tín hiệu đã tích lũy, được giữ lại trong bộ nhớ và được sử dụng trong chu kỳ chạy xe tiếp theo để cho phép mạch kiểm soát chất xúc tác có cơ hội tốt hơn để hoàn tất, ngay cả trong điều kiện lái xe với thời gian ngắn.
Hai giai đoạn được sử dụng để kiểm soát hiệu quả của chất xúc tác:
- Hư hỏng của giai đoạn đầu cho thấy chất xúc tác cần thử nghiệm thêm để xác định hiệu quả chất xúc tác.
- Giai đoạn thứ hai là quan sát các tín hiệu của các cảm biến trước và sau bầu xúc tác một cách chặt chẽ trước khi xác định nếu chất xúc tác thực sự bị suy giảm.Quá trình xử lý thống kê này được thực hiện để tăng độ chính xác của việc kiểm soát khả năng lưu trữ oxy. Không thực hiện thử nghiệm giai đoạn, không thể chỉ ra chất xúc tác hư hỏng.​
Chất xúc tác có thể bị hàm lượng lưu huỳnh xâm nhập một phần hoặc có thể rất nhiều.

2. Kiểm soát cảm biến oxy phía trước (S1):
Chẩn đoán nâng cao cho cảm biến oxy phía trước (S1) bao gồm theo dõi sự xuống cấp và nhiễm bẩn bằng cách theo dõi tần số chuyển đổi và thời gian chuyển đổi nghèo/giàu, giàu/nghèo. Thời gian giữa các chuyển đổi của cảm biến oxy gia nhiệt (HO2S) được theo dõi sau khi khởi động xe và trong điều kiện vòng lặp kín (Hình 2a).
hình 2 a b c d.jpg
Thời gian quá dài giữa các chuyển đổi có “short term fuel trim” ở giới hạn của nó (ví dụ lên tới +/- 20%) hoặc không có chuyển đổi nào kể từ khi khởi động, điều đó báo hiệu có sự cố. Do việc “thiếu chuyển đổi” nên sự cố có thể do cảm biến bị lỗi hoặc do sự thay đổi trong hệ thống nhiên liệu, DTC được lưu trữ để cung cấp thông tin bổ sung cho sự cố “thiếu chuyển đổi”. Các DTC khác nhau cho biết cảm biến thông báo hỗn hợp luôn nghèo hay luôn giàu, nếu cảm biến bị ngắt kết nối, v.v. (Hình 2b).

Lúc này tín hiệu cảm biến oxy phía sau được sử dụng để bù cho sự trục trặc do sự suy giảm của cảm biến oxy phía trước (Hình 2c).

3. Mạch sấy nóng cảm biến oxy phía trước và phía sau:
Nhiệt độ hoạt động bình thường của HO2S (Cảm biến oxy được sấy nóng) dao động từ 350 °C đến 850 °C (662 °F đến 1562 °F). Bộ gia nhiệt HO2S giảm đáng kể thời gian cần thiết để hệ thống kiểm soát nhiên liệu hoạt động. Mô đun điều khiển động cơ (ECM) cung cấp mạch điều khiển bằng độ rộng xung vuông để điều chỉnh dòng điện sấy bộ gia nhiệt. Khi HO2S lạnh, giá trị của điện trở thấp và dòng điện trong mạch cao. Ngược lại, nếu nhiệt độ của điện trở gia nhiệt tăng lên, dòng điện giảm dần. ECM sẽ báo lỗi DTC nếu phát hiện mạch điều khiển bộ gia nhiệt HO2S bị ngắn mạch.

Theo thầy Phạm Vỵ
 

Bạn hãy đăng nhập hoặc đăng ký để phản hồi tại đây nhé.

Bên trên