enestobeer
Thành viên O-H
Chào các cụ ! Dạo này em thấy trên diễn đàn có nhiều cụ hỏi và thắc mắc về vấn đề liên quan đến "òa ga". Em cũng xin "tâm sự" với các cụ một ít kiến thức "thực tế trên lý thuyết" mà đã được học ạ.
Theo em nghĩ thì để khắc phục được lỗi này thì chúng ta cần hiểu rõ bản chất vấn đề về hiện tượng này khi đó việc xử lý cũng như khi cần sự tư vấn của các thành viên khác dễ dàng hơn. Em thì có một mớ lý thuyết thôi chứ kinh nghiệm thì chỉ là "nít zanh" thôi. Có gì sai sót mong các cụ bỏ qua cho, hay có ném thì ném nhè nhẹ thôi nhé.
1. Bản chất:
Hiện tượng òa ga là hiện tượng mà khi tốc độ vòng tua của động cơ cao hơn tốc độ cho phép ở chế động động cơ chạy không tải (thường nằm trong dải tốc độ: 800 - 1000 v/ph) và khi vượt quá dải tốc độ này thì làm tiêu tốn nhiên liệu, tạo cảm giác khó chịu cho người lái khi di chuyển trong điều kiện đường xá đông đúc, thường xuyên phải rà phanh để hãm tốc độ và nếu vòng tua máy lên quá cao có thể dẫn tới việc mất kiểm soát và có thể gây ra hậu quả tai nạn nghiêm trọng.
Tốc độ vòng tua của động cơ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, về kết cấu, thông số kỹ thuật của từng dòng xe, hãng xe yêu cầu. Nhưng thường thì vẫn nằm trong dãi tốc độ vòng tua nói trên. Và khi mà tốc độ vòng tua chế độ không tải vượt quá gia trị cho phép ở trên thì gọi là hiện tượng "òa ga", và khi vượt quá giá trị tốc độ 1,500 v/ph thì quá cao. Cần phải xử lý kịp thời.
2. Nguyên nhân
Hiện tượng "òa ga" xảy ra khi xảy ra trường hợp hỗn hợp hòa khí nhiên liệu "xăng - không khí" cung cấp cho động cơ quá nhiều mà không thể kiểm soát được.
Từ bản chất nguyên nhân như vậy, thì theo kinh nghiệm thực tế phân tích được 3 nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng như trên: van không tải, bướm ga và cảm biến vị trí bướm ga.
2.1 Van không tải (van điều khiển chế độ không tải)
Van này có nhiệm vụ điều chỉnh tự động tiết diện lưu thông của đường gió phụ theo chế độ động cơ. Khi van không tải bị bẩn, kẹt hoặc chết, chế độ không tải của động cơ không còn được đảm bảo, xe dễ chết máy hoặc òa ga.
2.2 Bướm ga
Là cơ cấu điều khiển và hòa trộn hỗn hợp nhiên liệu trước khi hỗn hợp nhiên liệu vào vào động cơ, đảm bảo được hỗn hợp nhiên liệu phù hợp với thông số mà nhà sản xuất đưa ra.
Do thời gian sử dụng lâu, cũng như do sự can thiệp của việc sửa chữa dẫn đến bướm ga bị mòn làm tăng khe hở khi đã đóng hoàn toàn. Khi đó, không khí đồng thời đi qua đường gió phụ và đường gió chính dẫn tăng lượng xăng cung cấp làm tăng vòng tua máy. Cũng có trường hợp bướm ga đóng không kín do bụi bẩn hoặc kẹt dây ga, lò xo hồi vị của bản đạp chân ga yếu.
2.3 Cảm biến vị trí bướm ga (TPS)
Cảm biến vị trí bướm ga được lắp trên cổ họng gió. Cảm biến này biến đổi góc mở bướm ga thành điện áp, được truyền đến ECU động cơ như tín hiệu mở bướm ga (VTA). Ngoài ra, một số thiết bị truyền một tín hiệu IDL riêng biệt. Các bộ phận khác xác định nó tại thời điểm chạy không tải khi điện áp VTA này ở dưới giá trị chuẩn.
Cảm biến vị trí bướm ga hoạt động không đúng như thông số của nhà sản xuất hoặc chết dẫn tới việc truyền tín hiệu của chế độ không tải đến ECU điều khiển không chính xác. Với các dòng xe sử dụng dây ga để điều khiển bướm ga, van không tải và cảm biến vị trí bướm ga là riêng biệt nên khi xảy ra "òa ga" sẽ dễ điều chỉnh sửa chữa hơn. Còn với dòng xe dùng chân ga điện tử, van không tải và cảm biến vị trí bướm ga được tích hợp với nhau nên thường chỉ có thể can thiệt bằng cách cài đặt lại thông số ban đầu bằng máy chẩn đoán.
3. Thêm
Đối với những xe cũ còn sử dụng chế hòa khí như Kia Pride CD-5, Mitsubishi Jolie,… "òa ga" thường là do trong quá trình sửa chữa, bảo dưỡng người thợ tiến hành lắp sai các đường ống phụ (các đường ống phụ hoạt động ở các chế độ: khởi động nguội, sấy nóng, không tải, bù ga,…)
Đối với các dòng xe phun xăng điện tử, phần họng hút – vị trí có lắp các cảm biến như cảm biến vị trí bướm ga, cảm biến lưu lượng khí nạp,… đã không còn những đường ống khí phụ phức tạp như bộ chế hòa khí do việc cung cấp nhiên liệu đã được ECU tính toán theo từng chế độ của động cơ thông qua tín hiệu từ các cảm biến. Tuy nhiên, xe có hệ thống phun xăng điện tử lại có nhiều nguyên nhân dẫn tới hiện tượng òa ga hơn.
Với những dòng xe hiện đại ngày nay, khi mà sử dụng công nghệ phun xăng điện tử thì nguyên nhân dẫn đến hiện tượng "òa ga" phụ thuộc nhiều yếu tố khác, phức tạp hơn. Nhà cháu chỉ biết "ngu ngơ", chủ nhật rảnh quá không biết làm gì, nên cũng "tâm sự" đôi nét. Mong các cụ đọc mà chướng mắt thì đừng có chửi nhé, ném gạch thì ném cục nào nhỏ nhỏ thôi ạ
Theo em nghĩ thì để khắc phục được lỗi này thì chúng ta cần hiểu rõ bản chất vấn đề về hiện tượng này khi đó việc xử lý cũng như khi cần sự tư vấn của các thành viên khác dễ dàng hơn. Em thì có một mớ lý thuyết thôi chứ kinh nghiệm thì chỉ là "nít zanh" thôi. Có gì sai sót mong các cụ bỏ qua cho, hay có ném thì ném nhè nhẹ thôi nhé.
1. Bản chất:
Hiện tượng òa ga là hiện tượng mà khi tốc độ vòng tua của động cơ cao hơn tốc độ cho phép ở chế động động cơ chạy không tải (thường nằm trong dải tốc độ: 800 - 1000 v/ph) và khi vượt quá dải tốc độ này thì làm tiêu tốn nhiên liệu, tạo cảm giác khó chịu cho người lái khi di chuyển trong điều kiện đường xá đông đúc, thường xuyên phải rà phanh để hãm tốc độ và nếu vòng tua máy lên quá cao có thể dẫn tới việc mất kiểm soát và có thể gây ra hậu quả tai nạn nghiêm trọng.
Tốc độ vòng tua của động cơ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, về kết cấu, thông số kỹ thuật của từng dòng xe, hãng xe yêu cầu. Nhưng thường thì vẫn nằm trong dãi tốc độ vòng tua nói trên. Và khi mà tốc độ vòng tua chế độ không tải vượt quá gia trị cho phép ở trên thì gọi là hiện tượng "òa ga", và khi vượt quá giá trị tốc độ 1,500 v/ph thì quá cao. Cần phải xử lý kịp thời.
2. Nguyên nhân
Hiện tượng "òa ga" xảy ra khi xảy ra trường hợp hỗn hợp hòa khí nhiên liệu "xăng - không khí" cung cấp cho động cơ quá nhiều mà không thể kiểm soát được.
Từ bản chất nguyên nhân như vậy, thì theo kinh nghiệm thực tế phân tích được 3 nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng như trên: van không tải, bướm ga và cảm biến vị trí bướm ga.
2.1 Van không tải (van điều khiển chế độ không tải)

Van này có nhiệm vụ điều chỉnh tự động tiết diện lưu thông của đường gió phụ theo chế độ động cơ. Khi van không tải bị bẩn, kẹt hoặc chết, chế độ không tải của động cơ không còn được đảm bảo, xe dễ chết máy hoặc òa ga.
2.2 Bướm ga


Là cơ cấu điều khiển và hòa trộn hỗn hợp nhiên liệu trước khi hỗn hợp nhiên liệu vào vào động cơ, đảm bảo được hỗn hợp nhiên liệu phù hợp với thông số mà nhà sản xuất đưa ra.
Do thời gian sử dụng lâu, cũng như do sự can thiệp của việc sửa chữa dẫn đến bướm ga bị mòn làm tăng khe hở khi đã đóng hoàn toàn. Khi đó, không khí đồng thời đi qua đường gió phụ và đường gió chính dẫn tăng lượng xăng cung cấp làm tăng vòng tua máy. Cũng có trường hợp bướm ga đóng không kín do bụi bẩn hoặc kẹt dây ga, lò xo hồi vị của bản đạp chân ga yếu.
2.3 Cảm biến vị trí bướm ga (TPS)


Cảm biến vị trí bướm ga được lắp trên cổ họng gió. Cảm biến này biến đổi góc mở bướm ga thành điện áp, được truyền đến ECU động cơ như tín hiệu mở bướm ga (VTA). Ngoài ra, một số thiết bị truyền một tín hiệu IDL riêng biệt. Các bộ phận khác xác định nó tại thời điểm chạy không tải khi điện áp VTA này ở dưới giá trị chuẩn.
Cảm biến vị trí bướm ga hoạt động không đúng như thông số của nhà sản xuất hoặc chết dẫn tới việc truyền tín hiệu của chế độ không tải đến ECU điều khiển không chính xác. Với các dòng xe sử dụng dây ga để điều khiển bướm ga, van không tải và cảm biến vị trí bướm ga là riêng biệt nên khi xảy ra "òa ga" sẽ dễ điều chỉnh sửa chữa hơn. Còn với dòng xe dùng chân ga điện tử, van không tải và cảm biến vị trí bướm ga được tích hợp với nhau nên thường chỉ có thể can thiệt bằng cách cài đặt lại thông số ban đầu bằng máy chẩn đoán.
3. Thêm
Đối với những xe cũ còn sử dụng chế hòa khí như Kia Pride CD-5, Mitsubishi Jolie,… "òa ga" thường là do trong quá trình sửa chữa, bảo dưỡng người thợ tiến hành lắp sai các đường ống phụ (các đường ống phụ hoạt động ở các chế độ: khởi động nguội, sấy nóng, không tải, bù ga,…)
Đối với các dòng xe phun xăng điện tử, phần họng hút – vị trí có lắp các cảm biến như cảm biến vị trí bướm ga, cảm biến lưu lượng khí nạp,… đã không còn những đường ống khí phụ phức tạp như bộ chế hòa khí do việc cung cấp nhiên liệu đã được ECU tính toán theo từng chế độ của động cơ thông qua tín hiệu từ các cảm biến. Tuy nhiên, xe có hệ thống phun xăng điện tử lại có nhiều nguyên nhân dẫn tới hiện tượng òa ga hơn.
Với những dòng xe hiện đại ngày nay, khi mà sử dụng công nghệ phun xăng điện tử thì nguyên nhân dẫn đến hiện tượng "òa ga" phụ thuộc nhiều yếu tố khác, phức tạp hơn. Nhà cháu chỉ biết "ngu ngơ", chủ nhật rảnh quá không biết làm gì, nên cũng "tâm sự" đôi nét. Mong các cụ đọc mà chướng mắt thì đừng có chửi nhé, ném gạch thì ném cục nào nhỏ nhỏ thôi ạ