Chuẩn đoán hư hỏng hệ thống nạp.
Máy phát điện được chế tạo để duy trì việc nạp điện một cách liên tục cho ắc quy, không dùng để sạc lại cho ắc quy đã bị chết như nhiều người lầm tưởng. Nếu dùng để sạc lại cho ắc quy đã chết, máy phát sẽ bị quá tải, thậm chí có thể bị cháy.
Luôn kiểm tra hoạt động của hệ thống nạp khi thay thế hoặc sạc lại ắc quy. Một hệ thống nạp làm việc bình thường phải cung cấp một điện thế nạp cho các thiết bị ở quanh mức 14V ở chế độ không tải, các thiết bị điện ở chế độ OFF. Khi khởi động xe lần đầu, điện thế nạp tăng lên rất nhanh lớn hơn điện thế của ắc quy khoảng 2V, sau đó nó giảm xuống.
Độ chính xác của điện thế nạp sẽ thay đổi theo tình trạng của ắc quy được nạp, khả năng tải của hệ thống điện và nhiệt độ môi trường. Nhiệt độ càng thấp, điện thế nạp càng cao hơn và ngược lại, nhiệt độ tăng cao thì điện thế nạp lại càng thấp. Điện thế nạp bình thường được áp dụng có thể từ 13,9 đến 15,1V ở 770F. Nhưng ở nhiệt độ -200F, điện thế nạp ở vào khoảng từ 14,9 đến 15,8 V. Đối với một động cơ đang nóng, làm việc điều kiện nắng nóng, điện thế nạp thông thường ở vào khoảng từ 13,5 đến 14,3V.
Điện thế nạp cũng có thể được kiểm tra bằng cách điều chỉnh trụ than của vôn kế và ampe kế. Trụ than được gắn vào ắc quy và điều chỉnh để nhận được điện thế ra cao nhất trong khi để động cơ chạy ở 2000 vòng/phút.
Cường độ dòng điện nạp cũng là một yếu tố quan trọng. Nó cho biết tình trạng của máy phát. Với động cơ chạy ở chế độ không tải và không có tải các dụng lên hế thống nạp (nghĩa là đèn và các thiết bị điện đều tắt, ắc quy đã được nạp đầy), cường độ dòng sinh ra có thể khá thấp (thường là thấp hơn 10A). Khi bật đèn pha và quạt sưởi, động cơ quay ở 2000 vòng/phút, dòng điện sinh ra sẽ đạt mức cao hơn, thông thường từ 25 đến 30A hoặc cao hơn nữa.
Chú ý: Nếu máy phát trên xe của bạn đã sửa chữa nhiều lần. Điều này có thể do ắc quy không tích được điện một cách bình thường làm cho máy phát phải cấp điện cho ắc quy liên tục ở mức độ cao hơn nhiều so với bình thường. Kết quả là máy phát bị nóng lên, bị quá nhiệt và thậm chí hỏng hẳn. Do vậy dòng điện nạp cho ắc quy phải dần dần giảm đi sau khi động cơ khởi động và thu hẹp dần đến nhỏ hơn 10V ở chế độ không tải (không bật đèn pha và các thiết bị điện) sau khoảng năm phút chạy máy. Nếu ắc quy đã được sạc đầy vẫn còn hút khoảng 20A hoặc hơn nữa sau năm phút ở chế độ không tải, chứng tỏ ắc quy đã bị khuyết tật và cần phải thay thế.
Cảnh báo: Không bao giỡ được phép tháo cáp nối với các cực ắc quy ra trong khi động cơ đang hoạt động để kiểm tra máy phát bởi làm như vậy có thể gây ra một sự tăng vọt điện áp, gây hư hỏng cho máy phát cũng như các thiết bị điện khác.
Còn tiếp
Máy phát điện được chế tạo để duy trì việc nạp điện một cách liên tục cho ắc quy, không dùng để sạc lại cho ắc quy đã bị chết như nhiều người lầm tưởng. Nếu dùng để sạc lại cho ắc quy đã chết, máy phát sẽ bị quá tải, thậm chí có thể bị cháy.
Luôn kiểm tra hoạt động của hệ thống nạp khi thay thế hoặc sạc lại ắc quy. Một hệ thống nạp làm việc bình thường phải cung cấp một điện thế nạp cho các thiết bị ở quanh mức 14V ở chế độ không tải, các thiết bị điện ở chế độ OFF. Khi khởi động xe lần đầu, điện thế nạp tăng lên rất nhanh lớn hơn điện thế của ắc quy khoảng 2V, sau đó nó giảm xuống.
Độ chính xác của điện thế nạp sẽ thay đổi theo tình trạng của ắc quy được nạp, khả năng tải của hệ thống điện và nhiệt độ môi trường. Nhiệt độ càng thấp, điện thế nạp càng cao hơn và ngược lại, nhiệt độ tăng cao thì điện thế nạp lại càng thấp. Điện thế nạp bình thường được áp dụng có thể từ 13,9 đến 15,1V ở 770F. Nhưng ở nhiệt độ -200F, điện thế nạp ở vào khoảng từ 14,9 đến 15,8 V. Đối với một động cơ đang nóng, làm việc điều kiện nắng nóng, điện thế nạp thông thường ở vào khoảng từ 13,5 đến 14,3V.
Điện thế nạp cũng có thể được kiểm tra bằng cách điều chỉnh trụ than của vôn kế và ampe kế. Trụ than được gắn vào ắc quy và điều chỉnh để nhận được điện thế ra cao nhất trong khi để động cơ chạy ở 2000 vòng/phút.
Cường độ dòng điện nạp cũng là một yếu tố quan trọng. Nó cho biết tình trạng của máy phát. Với động cơ chạy ở chế độ không tải và không có tải các dụng lên hế thống nạp (nghĩa là đèn và các thiết bị điện đều tắt, ắc quy đã được nạp đầy), cường độ dòng sinh ra có thể khá thấp (thường là thấp hơn 10A). Khi bật đèn pha và quạt sưởi, động cơ quay ở 2000 vòng/phút, dòng điện sinh ra sẽ đạt mức cao hơn, thông thường từ 25 đến 30A hoặc cao hơn nữa.
Chú ý: Nếu máy phát trên xe của bạn đã sửa chữa nhiều lần. Điều này có thể do ắc quy không tích được điện một cách bình thường làm cho máy phát phải cấp điện cho ắc quy liên tục ở mức độ cao hơn nhiều so với bình thường. Kết quả là máy phát bị nóng lên, bị quá nhiệt và thậm chí hỏng hẳn. Do vậy dòng điện nạp cho ắc quy phải dần dần giảm đi sau khi động cơ khởi động và thu hẹp dần đến nhỏ hơn 10V ở chế độ không tải (không bật đèn pha và các thiết bị điện) sau khoảng năm phút chạy máy. Nếu ắc quy đã được sạc đầy vẫn còn hút khoảng 20A hoặc hơn nữa sau năm phút ở chế độ không tải, chứng tỏ ắc quy đã bị khuyết tật và cần phải thay thế.
Cảnh báo: Không bao giỡ được phép tháo cáp nối với các cực ắc quy ra trong khi động cơ đang hoạt động để kiểm tra máy phát bởi làm như vậy có thể gây ra một sự tăng vọt điện áp, gây hư hỏng cho máy phát cũng như các thiết bị điện khác.
Sử dụng dao động kế để kiểm tra điện áp của máy phát
Còn tiếp